Con Đường Giác Ngộ+ THÍCH THÔNG PHƯƠNG

  1. 2. Thế Gian Vô Thường
  2. 3,Thừa Kế Nghiệp
  3. I. THỪA KẾ NGHIỆP
  4. II. TU LÀ CHUYỂN NGHIỆP
  5. III. KHÔNG LẦM NHÂN QUẢ
  6. IV. TÓM KẾT
  7. 4. Cái Mê Truyền Kiếp
  8. I. THẾ NÀO LÀ CÁI MÊ TRUYỀN KIẾP?
  9. II. HỌC PHẬT LÀ HỌC TỰ NGÃ
  10. III. CON ĐƯỜNG VÔ NGÃ
  11. IV. TÓM KẾT
  12. 5. Phát Tâm Bồ Đề
  13. I. THÂN NGƯỜI KHÓ ĐƯỢC, PHẬT PHÁP KHÓ NGHE
  14. II. CÓ ĐẠO LÀ QUÍ
  15. III. BẢN CHẤT TÂM BỒ-ĐỀ
  16. 6. Yếu Chỉ Tâm Kinh Bát Nhã
  17. II. TINH THẦN BÁT-NHÃ LÀ PHÁ CHẤP, PHỦ ĐỊNH
  18. III. KHẲNG ĐỊNH

Học Phật là giác ngộ. Tu Phật là đi trên đường giác ngộ. Bởi đạo Phật là đạo giác ngộ

  • Như vậy, giác ngộ là điều không thể thiếu đối với người học Phật và tu Phật. https://thientruclam.info/ht-thich-thong-phuong/con-duong-giac-ngo
  • Nhưng giác ngộ có cạn, có sâu, tùy theo trình độ của người. Giác ngộ thế gian vô thường, giác ngộ nghiệp báo, giác ngộ mê lầm chấp ngã, giác ngộ nghĩa KHÔNG của Bát-nhã, giác ngộ Phật tánh nơi mỗi chúng sinh, giác ngộ chân tâm rõ ràng thường biết… Đây là ánh sáng giác ngộ dẫn đường cho chúng sinh trở về cội nguồn chân thật xưa nay đã tự quên mất. 

Tuy nhiên, con đường giác ngộ chân thật vốn không nằm trên những chữ nghĩa chết này, mà ở ngay trong tâm của mỗi người. Do đó, để có được những bước đi chắc thật, người học Phật phải là những hành giả thực sự, chớ không thể chỉ tự hài lòng trên kiến thức văn tự. Những dòng chữ này không thể ghi lại ánh sáng giác ngộ chân thật.

2. Thế Gian Vô Thường

I. VÔ THƯỜNG LÀ MỘT CHÂN LÝ

thứ nhất, nói đến vô thường, đó là một chân lý. Dù cho có Phật ra đời hay Phật không ra đời thì thế gian cũng là vô thường, vẫn luôn biến dịch không đứng một chỗ.

  • hiểu được thế thì cuộc sống của chúng ta bớt vướng mắc và cởi mở nhiều hơn. Lâu nay, Phật tử đã nghe, hiểu được thế gian là vô thường, nhưng nghe mà có luôn nhớ như vậy không?
  • Ví dụ, ở đời ai sanh ra rồi cũng phải lớn lên, già rồi chết, đó là lẽ thường. Tất cả sự biến đổi trong thế gian này đều phải trải qua như vậy. 
  • Còn chúng ta thương mến ai thì muốn gặp hoài, không muốn rời không muốn mất, nên khi mất thì khổ. Là Phật tử chúng ta hiểu rõ định luật vô thường luôn chi phối tất cả, như có câu “không thể tắm hai lần trong một dòng sông”, tức là khi vừa tắm lên rồi trở xuống nữa thì dòng nước khác trên kia đổ xuống, không phải dòng nước lúc trước nữa rồi.
  • Trong đời sống hằng ngày cũng vậy, đi đâu cảnh đẹp thì chụp hình để giữ lại, mà có giữ được không? Thấy cảnh hay, cảnh đẹp muốn giữ lại cho lâu mà giữ không được. Bởi vì thế gian là luôn thay đổi.
  • Muôn việc trên đời này như nước trôi nước. Dòng nước này đẩy dòng nước khác, cứ đẩy tới, đẩy tới không dừng, cuộc đời cũng vậy cứ đi tới, đi tới thôi. Rồi “trăm năm lòng nhủ lòng”. Tâm mình luôn nhắc thầm với lòng của mình, sự đời nó luôn biến đổi. Thấy đúng lẽ thật như vậy thì sẽ bớt khổ, nhẹ khổ.

II. KHÉO SỐNG TÙY DUYÊN
Hiểu được ý nghĩa thế gian là vô thường rồi thì Phật tử khéo biết sống tùy duyên, vì tùy duyên nên không cố chấp sẽ bớt khổ rất nhiều. Người ta sở dĩ khổ vì cứ lo bám níu, cái gì qua rồi cố giữ lại, mà giữ không được tức là bất như ý thì khổ thôi.

  • Những người lớn tuổi lâu lâu ngồi nhớ lại một thời oanh liệt của mình rồi tiếc, rồi buồn, như vậy là quên mất cuộc sống hiện tại. Nếu người khéo biết tùy duyên thì cuộc sống trôi chảy, mới mẻ, cởi mở rất nhiều.
  • Cuộc đời mãi quay nhanh, Lên xuống như bánh xe nước. Thân này đã hiện hữu bao lần, quay tròn vô tận, Thân này đã lấy hàng ngàn dạng hình khác nhau, Mỗi vạn hình lại hủy hoại, lại hình thành Như đất sét ướt thành hình trên bánh xe người thợ gốm.
  • Tức là cuộc đời cứ quay nhanh như bánh xe nước, quay đều quay đều như vậy. Thân này đã hiện hữu nơi đây nhiều vô tận, không biết bao nhiêu lần chứ không phải lần này. Nghĩa là trong cuộc luân hồi thân này sanh rồi diệt, sanh rồi diệt đến hôm nay là đã vô số lần rồi, giống như bánh xe, quay đều như vậy.
  • Sự đời vô thường là như vậy đó, không có đứng yên một chỗ. Thấp cao, tối sáng luôn thay đổi với nhau.
  • Nó không tối tăm mãi, cũng như đêm rồi sẽ sáng, và người lắm của có lúc sẽ mất gia sản. Nhiều lúc lắm của bị tai nạn nào đó, như hỏa hoạn hay nước lụt v.v… rồi cũng mất, tức là mọi hình thái sẽ đổi thay và đổi thay v.v…
  • “Trong trò nhảy múa vô tận của hai mặt nhị nguyên”.
  • Đây là cái trò chơi tương đối mà ông gọi là nhị nguyên. “Con ơi, nếu con là một đứa trẻ đặc biệt Người ta sẽ khám phá ra con thuộc một dòng tái sanh Và cho con vào tu viện với các Lạt-ma Nếu con khôn ngoan và ăn nói trôi chảy Người ta sẽ cho con làm việc văn phòng Và cột mình sau một cái bàn viết. Mỗi con ngựa tặng cho con một đống chuyện phải làm, Mỗi giàu sang chấm dứt bằng sự tranh chấp”.
  • “Ai biết được, ngày mai nghiệp nào sẽ ào tới. Ngày hôm nay gieo gì, một kiếp nào nó sẽ chín, Sẽ gặt trọn vẹn, đó là điều chắc chắn. Vì thế, hãy tốt với mọi điều, vô tâm không phán đoán, Không tham cầu điều xấu ác, Tất cả thêm hay bớt, được hay thua, đều chỉ là ảo ảnh”.
  • Ngày mai này việc nào sẽ tới với mình chưa biết được. Hôm nay, mình gieo cái gì thì một kiếp nào đó nó sẽ chín, quả đó mình sẽ hưởng. Nay gieo nhân tốt lúc nào quả chín mình sẽ hưởng quả lành, nay gieo nhân xấu quả chín mình cũng sẽ hưởng quả đó; chưa biết chắc được thời gian nhưng rồi sẽ gặt hái đó là điều chắc chắn. Nên ông khuyên ngay đây hãy sống tốt với mọi điều. Muốn hưởng quả ngọt thì phải trồng cây ngọt, chứ trồng cây chua mà đòi hưởng quả ngọt thì đâu có. Tất cả thêm hay bớt, được hay thua đều chỉ là ảo ảnh, không phải bận tâm nhiều.
  • Đừng hy vọng cũng đừng sợ hãi con ơi! Đừng mong cầu và vì thế cũng chẳng thất vọng”. Không mong cầu thì đâu có thất vọng. Sở dĩ có thất vọng là do mong cầu nhiều quá, mong cầu càng nhiều thì thất vọng càng lắm. Ít mong cầu thì ít thất vọng.
  • “Chấp nhận tất cả, nó đến hay nó đi Và sống thuận theo lẽ trời lồng lộng. Hãy thật giản dị, chẳng lo âu Và sống thuận theo Phật tánh đang ở trong con, Và yên nghỉ trong niềm vui của tự tính. Con có thể bắn bầu trời bằng bao nhiêu mũi tên, Bao nhiêu cũng được con à! Nhưng chúng sẽ rơi trở lại xuống đất tất cả”
  • Tức là mình bắn bao nhiêu mũi tên lên trời nó cũng sẽ rơi xuống. Ông khuyên nên chấp nhận tất cả. Nó đến hay nó đi đều bình thản không chối bỏ, sống thuận theo nhân quả. Bởi vì mình biết rõ mọi việc đều không phải tự nhiên đều có nhân có quả, nhân quả đến thì cứ tùy thuận theo rồi nó sẽ qua. Ông khuyên hãy sống thật giản dị chẳng lo âu, khéo thuận theo Phật tánh đang ở trong ta, sống trong niềm vui của tự tánh.
  • Rõ ràng cuộc đời là vô thường, luôn luôn biến đổi, tất cả mọi thứ trên đời này chỉ là tương đối, không hề có cái hoàn toàn tuyệt đối. Nhưng người ta ai cũng luôn muốn mọi việc hoàn hảo, muốn cái gì cũng luôn trọn vẹn. Vì muốn mà không được nên khổ. Hiểu vậy rồi chúng ta biết sống tùy duyên thì sẽ bớt khổ, còn muốn được hoàn toàn trọn vẹn khi nó không được thì sẽ bất như ý và khổ thôi!
  •  Tâm con người luôn biến đổi vô thường, tất cả đang sống trong mê lầm, sanh diệt và luôn đổi thay, khi thấy nó đổi thay thì cũng hiểu là lẽ thường thôi! Chính mình cũng vậy, tâm mình cũng vô thường.
  • Khi mới tu nhiệt tình sẵn sàng bỏ hết để học đạo, nhưng có khi chừng năm, bảy năm thì yếu dần dần! Đó là do tâm vô thường nên thay đổi. Hiểu rồi khéo thuận theo nhân quả vô thường và sống với tâm sáng suốt của mình, sống với Phật tánh sẵn có nơi mình. Đó mới là cái không mất. Nếu ở đời biết khéo sống có đạo lý, khéo biết tùy duyên thì dù ở ngoài đời nhưng vẫn vui sống có đạo.
  • Như ông lão này, không vào chùa nhưng khéo biết ứng dụng Phật pháp vào trong thế gian nên gặp cảnh nào ông cũng vui hết. Được cũng vui, mất cũng vui, bình thản. Bài kệ Cư Trần Lạc Đạo của vua Trần Nhân Tông:“Ở đời vui đạo hãy tùy duyên”. Ở ngay thế gian mà biết đạo và vui với đạo, còn không biết thì sẽ khổ.
  • Vì vậy, lời khuyên tóm tắt của bà đúng là điều chúng ta cần phải học: “Đừng mang vào lòng bất cứ cái gì” thì nhẹ nhàng, còn ôm vào lòng càng nhiều thì càng khổ. Không nên ôm chặt vào nhiều vì nó đến rồi nó sẽ đi, biết vậy thì nhẹ nhàng lắm. Còn cố chấp thì sẽ khổ, đơn giản. Ai khéo ứng dụng sống được như vậy, thì đời mình là sẽ bớt khổ rất nhiều. Bao nhiêu đó có thể tu hết cuộc đời này cũng tương đối đủ rồi: “Đừng đem vào lòng bất cứ gì hết thì đâu có phiền não”. Kiểm lại xem có đúng vậy không?

III. QUÍ TIẾC THỜI GIAN

  • Phật chỉ cho biết vô thường có nghĩa là mọi việc qua rồi thì không thể kéo lại, nên thời gian hiện có ở đây rất là quí báu, phải trân trọng.
    • Tức là không thể để qua suông, phải sống cho thật đúng ý nghĩa, biết quí hiện tại. Không thể nói vô thường thì không cần làm gì hết, rồi bỏ thời gian này qua suông, là phí cuộc đời. Cái duyên lành chúng ta đang có không dễ gì gặp lần thứ hai. Thế thì phải biết trân trọng, phải khéo phát triển không nên do dự.
    • Hôm nay, nhờ có duyên lành được gần chùa học Phật pháp, chúng ta phải phát triển căn lành để đời sau tăng gấp rưỡi, gấp hai. Lỡ sau này sanh vào các loài khác thì sao? Đó là hiểu được ý nghĩa vô thường, không để duyên lành này trôi qua, rồi sau tìm lại không có. Rõ ràng người hiểu được ý nghĩa đó thì đời sống tích cực thêm chứ không tiêu cực.
  • Mỗi vị phải nhớ tất cả thế gian là vô thường, ngay cả thân và tâm của chúng ta cũng vô thường, đổi thay, không dừng một chỗ, cho nên gặp duyên lành tốt thì phải làm liền, không thì, duyên xấu ác sẽ dẫn đi. Chính trong kinh có dạy:
    • Hãy gấp rút làm việc thiện, hãy chế ngự điều dữ trong tâm, ai chậm tạo việc lành, sẽ ưa thích làm điều dữ” (Pháp Cú 116). Đức Phật dạy chúng ta như thế. Tức là mình chậm làm điều lành một chút thì điều dữ chen vào, nên phải chộp lấy thời cơ làm lành ngay thì sẽ bớt điều dữ. Hiểu vô thường rồi thì cuộc sống không tiêu cực, lại rất tích cực và lúc nào cũng phải sẵn sàng làm các việc lành trong khả năng.
    • Trước kia, có những vị thầy Tây Tạng buổi tối trước khi đi ngủ đều lau rửa sạch sẽ bình trà, tách trà, gói lại cẩn thận, bởi vì ngày mai sau khi ngủ dậy không chắc là sẽ dùng tách trà đó nữa. Nên các vị làm trước như thế xem như không nghĩ tới ngày mai. Hiểu vô thường đến như vậy, nên các ngài tu mau đắc đạo.
  • Đối với nghĩa vô thường mà hiểu kỹ, hiểu sâu rồi chúng ta thấy an vui, giảm được phiền não rất nhiều. Mới thấy Phật pháp thiết thực, có giá trị và cao quí; bằng không khi nghe nói Phật pháp là Pháp bảo cao quí mà lâu nay không thấy nó “Bảo” ở chỗ nào? Khi hiểu kỹ, ứng dụng được vào cuộc sống thì niềm tin càng sâu, vững thêm.

IV. NGHĨA SÂU CỦA VÔ THƯỜNG

vô thường để giúp người tỏ ngộ được lẽ thật để vươn lên, để sống được với cái chân thật, chứ không phải nói vô thường rồi chỉ thấy vô thường tạm bợ, đó là ý nghĩa sâu của vô thường.

  • Lý vô thường không phải làm cho con người bi quan, khi rõ tất cả là vô thường thì chúng ta không mê lầm, sống trở lại nguồn gốc chân thật mà chúng ta đã bỏ quên. Tức là Phật tánh, là bản tâm, là lẽ thật nơi chính mình.
  • Nói tất cả chúng sanh đều có Phật tánh mà Phật tánh đó vô thường không chạm tới được. Chúng sanh bị vô thường chi phối nhưng cũng không mất Phật tánh, nên người khéo tu, giác ngộ được thì sẽ chuyển chúng sanh thành Phật.
  • Đức Phật, Bồ-tát, các vị Thánh Hiền, cũng từ chúng sanh giác ngộ mà thành. Khi còn mê thì là chúng sanh, khi giác ngộ rồi thì chuyển thành Phật. Phật cũng từ chúng sanh tiến lên, Bồ-tát, các vị A-la-hán, các vị Thánh Hiền cũng vậy. Vậy thì trong chúng sanh có cái phi chúng sanh, nên nói vô thường để chúng ta không lầm cái giả này, khéo sống trở về với chân lý giác ngộ đó.
  • Bài kệ dạy chúng của thiền sư Mãn Giác: “Xuân khứ bách hoa lạc, Xuân đáo bách hoa khai, Sự trục nhãn tiền quá, Lão tùng đầu thượng lai. Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận, Đình tiền tạc dạ nhất chi mai” là nói lên điều này: Trong cái vô thường có cái chân thật.
  • Tức là Xuân đi thì trăm hoa rơi rụng, xuân đến trăm hoa đua nở, sự đời cứ trôi qua trước mắt như nước trôi, nước cứ trôi, trôi qua hết. Lâu lâu nhìn lại thì cái già nó đến trên đầu rồi, tóc đã bạc rồi.
  • Bài kệ nhắc rằng sự đời vô thường, từ hoàn cảnh bên ngoài cho đến bản thân đều bị vô thường biến đổi. Nhưng tại sao không nói xuân đến trước mà lại nói xuân đi trước? Thường người ta nói đến rồi mới đi, có đến mới có đi, xuân đến hoa nở, xuân đi hoa tàn, có nở có tàn. Ở đây, Sư nói ngược lại: “Xuân đi thì trăm hoa rụng, xuân đến thì trăm hoa nở
  • Vì đây là bài kệ thị chúng của Sư lúc sắp tịch, nhắc nhở để đại chúng bớt buồn. Sắp tịch tức là sắp đi, Sư nói rằng thân này cũng vậy. Có mặt trên đời này đến lúc hết duyên thì đi, giống như xuân đi thì hoa rụng tàn. Tuy vậy, nhưng gặp duyên đến thì hoa nở, tức là có rụng có tàn có nở. Đó là tướng vô thường của thế gian. Nhưng trong đó “Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết”, nghĩa là trong mùa xuân hoa tàn rụng đó vẫn còn: “Đêm qua, trước sân còn một cành mai”. Nghĩa là sao? Là cũng còn có mùa xuân.
  • Sư dùng chữ rất tế nhị. Sư không nói là còn một chùm mai mà nói là một cành mai. Vì nếu là một chùm mai thì nó sẽ rụng nữa, còn cành mai thì nó vẫn còn đó, tới mùa xuân đến nó lại nở nữa, hoa có rụng có tàn nhưng cành thì vẫn còn đó. Ở đây nói rõ cuộc đời là vô thường đổi thay, thân này cũng theo đó mà hủy hoại. Cũng như Sư có sanh ra rồi cũng có tịch. Nhưng Sư đi đó mà Sư có mất không? Gặp duyên thì Sư cũng hiện nơi khác. Cũng như cành mai này, tới mùa xuân năm sau cũng nở nữa, tức là cái này vô thường biến diệt nhưng trong đó có cái chân thật.
  • Vậy, Phật nói vô thường để con người sống trở lại với lẽ thật của chính mình chứ không phải nói vô thường là vô thường. Hiểu vậy thì thấy ý nghĩa vô thường rất sâu đâu phải chỉ dừng ở nghĩa vô thường thôi. Qua đó, chúng ta mới thấy Phật pháp sâu xa, không thể nghĩ bàn.
  • Phật dạy trong kinh Đại thừa thì thân này gọi là huyễn thân, thân sanh diệt giả có. Nhưng còn có pháp thân, mà pháp thân thì không sanh diệt. Nên phẩm Như Lai Thọ Lượng trong kinh Pháp Hoa, Phật bảo là Ngài thành Phật bao lâu rồi? Ngài nói từ khi ta thành Phật đến nay số kiếp vô lượng vô biên, nhiều như cát bụi không thể kể được.
  • Ngài nói từ khi Ngài thành Phật đến nay còn lâu xa hơn số bụi đó nữa. Vậy tuổi thọ Ngài bao nhiêu? Thường chúng ta hiểu tuổi thọ của Phật là tám mươi năm rồi nhập Niết-bàn. Nếu hiểu theo như Phật nói trong kinh thì Phật có nhập Niết-bàn không? Vậy Phật đâu có nhập Niết-bàn theo nghĩa thường hiểu là diệt.
  • Vì mê nên chúng ta thấy Phật nhập Niết-bàn, nếu giác ngộ chúng ta thấy Phật không có nhập Niết-bàn. Bởi tuổi thọ của Phật đã nói như trên, nên đức Phật đã nhập Niết-bàn là Phật ứng thân, vì là ứng thân nên có sanh ra rồi nhập Niết-bàn. Còn đức Phật kia vẫn mãi còn hiện hữu. Nếu hiểu được như vậy thì lúc nào cũng thấy Phật ra đời với chúng ta chứ không nhập Niết-bàn. Mỗi người ai cũng có Phật tánh nhưng Phật trong chính mình cũng nhập Niết-bàn không biết bao nhiêu kiếp rồi, bây giờ phải làm sao cho Phật ra đời trở lại đây?
  • Hãy giác ngộ trở lại thì thấy Phật ra đời thôi! Nếu thấy Phật ra đời thì ngay đây cũng vượt qua cả vô lượng kiếp đã nhập Niết-bàn rồi đó. Mới thấy được lẽ thật, vòng luân hồi sanh tử đúng như là giấc mộng. Chúng ta tưởng Phật nhập Niết-bàn nhưng Phật vẫn còn với mình. Hiểu như vậy mới thấy được lý sâu trong lẽ vô thường, chứ không phải nói vô thường chỉ dừng trên cái vô thường thôi.

V. TÓM KẾT

  • Hiểu rõ thế gian là vô thường để chúng ta bớt vướng mắc, để phát tâm Bồ-đề, để không trôi theo mê lầm và tích cực sống vươn lên chứ không tiêu cực buông xuôi theo nó. Phải luôn chộp lấy thời cơ hoàng kim để tiến lên.
  • Vậy, tất cả thế gian là vô thường không có gì bền chắc, không có gì để nắm bắt, chấp chặt, thấy được như vậy thì cuộc sống chúng ta cởi mở và gần với nhau hơn. Biết cuộc đời vô thường thì bớt làm khổ nhau. Tất cả cùng sống chung trong cuộc vô thường, nên đem an vui cho nhau hơn là đem đau khổ cho nhau. Là cuộc sống vui hơn, và bình tĩnh với sự đời vô thường. Giống như bà già khuyên người đàn bà kia, nên nhớ tất cả là vô thường rồi cái tâm buồn khổ nó cũng vô thường luôn. Nên mỗi lần buồn thì nhớ cái tâm cũng vô thường, nó không có dừng.
  • Như vậy, khéo biết ứng dụng để luôn tiến trên đường học đạo, để bớt khổ thì đó là uống thuốc. Một lý vô thường này quán kỹ, quán sâu là có thể đắc đạo. Ngày xưa thời Phật có những vị quán vô thường mà chứng A-la-hán. Quán thân mình vô thường thì cũng thấy là vô ngã, không có ngã thì ai buồn phiền, ai phiền não, ai sanh tử, phá được cái mê đó là chứng A-la-hán.
  • Qua những điều trình bày trên chắc quý Phật tửû cũng hiểu rồi, nhưng cái hiểu này có phải là cái hiểu của mình chưa hay còn là cái hiểu của thầy? Phải làm sao chuyển nó thành cái hiểu của mình.
  • Để tóm kết bài giảng này cho tất cả luôn ghi nhớ, có một bậc thầy Tây Tạng dạy rằng: “Bạn có bao giờ thật sự hiểu và thật chứng lý vô thường hay chưa? Bạn đã thâm nhập nó trong từng ý tưởng, từng hơi thở và từng động tác đến nỗi cuộc đời của bạn nhờ vậy mà được đổi mới hay chưa?”.
  • Tức là hiểu và thực chứng lý vô thường trong từng hơi thở, từng bước đi, từng lời nói, nhờ vậy mà cuộc đời của mình chuyển đổi, có làm được vậy không? Và hãy tự hỏi bạn hai câu này, nếu bạn trả lời được thì bạn mới thật sự hiểu vô thường:
  • – Câu thứ nhất là: “Tôi có nhớ rằng lúc nào tôi cũng đang chết hay không? Và mọi người, mọi vật khác cũng đang chết hay không? Bởi vậy, tôi đối xử với mọi chúng sanh với lòng bi mẫn trong mọi lúc.
  • Ngồi ở đây có nhớ mình đang chết dần hay không? Nhớ mình đang chết, mọi người cũng đang chết, vậy là đồng cảnh ngộ. Thấy tất cả cùng hoàn cảnh nên có lòng bi mẫn thương xót với nhau trong mọi lúc.

3,Thừa Kế Nghiệp

I. THỪA KẾ NGHIỆP

Đạo Phật luôn đề cao tinh thần nhân quả, chúng ta sống trong cuộc đời này đều là sống trong nhân quả. Cuộc sống chúng ta hiện nay là thừa kế cái quả của đời trước, gọi là thừa kế nghiệp

  • Tong nhà Phật không nói số mệnh mà cho là nghiệp. Nếu nói là định mệnh thì sẽ ngăn chặn con đường tiến hóa, số mệnh định sẵn như vậy rồi không thể chuyển được nữa.
  • Trái lại, Phật giáo cho là nghiệp chúng ta tu có thể chuyển hóa được. Nghiệp tức là những hành động tạo tác của con người trong đời trước hay đời này. Nghiệp do chúng ta tạo, nên có thể chuyển đổi. Nếu lỡ tạo nghiệp xấu nghiệp ác, chúng ta thức tỉnh biết đó là sai quấy, quyết tâm sửa đổi thì sẽ chuyển thành nghiệp lành nghiệp tốt, đó là tu
  • Có tu mới đưa con người tiến hóa thăng hoa, đem lại niềm tin cho chính mình. Theo tinh thần Phật dạy, tất cả chúng ta đều sống trong nhân quả, sống với quả hôm nay là do nhân đời trước.
  • Quả lành dữ, khổ vui hoặc ngu trí, sang hèn đều có nhân đời trước chứ không phải ngẫu nhiên. Do con người tạo nghiệp không đồng nên sanh ra mỗi hoàn cảnh không đồng. Có những người cùng sanh ra trong một gia đình, một cha mẹ nhưng có đứa thông minh, có đứa không được thông minh. Có đứa giàu, có đứa không làm ăn được. Theo khoa học nói gien cha mẹ sao thì con cái như vậy, nhưng đôi khi cha mẹ rất thông minh mà con thì ngu đần. Hoặc cha mẹ không thông minh mà con là thần đồng, vậy đâu phải do gien. Vì vậy, nếu lấy tinh thần khoa học mà giải thích thì không giải thích hết được.
    • Phật pháp thấy rõ điều này rất đơn giản, đều do nhân quả nghiệp báo của con người đã tạo đời trước. Như đời trước đã tạo nghiệp sáng suốt trí tuệ, nên đời này lưu lại sanh ra người đó phát triển trí tuệ sớm. Có những đứa bé thần đồng, sanh ra đã biết được những điều nó chưa học. Có những người mới gặp nhau lần đầu đã thấy có cảm tình, hoặc mới gặp mà cảm thấy ghét cay ghét đắng. Do cái gì? Do nghiệp duyên đời trước, ai gần gũi với mình nên gặp nhau đã có cảm tình. Còn người kia trước cũng có nghiệp duyên trái nghịch nên thấy lần đầu đã không có cảm tình. Đó là tinh thần nhân quả Phật dạy.
    • Phật pháp thấy rõ điều này rất đơn giản, đều do nhân quả nghiệp báo của con người đã tạo đời trước. Như đời trước đã tạo nghiệp sáng suốt trí tuệ, nên đời này lưu lại sanh ra người đó phát triển trí tuệ sớm. Có những đứa bé thần đồng, sanh ra đã biết được những điều nó chưa học. Có những người mới gặp nhau lần đầu đã thấy có cảm tình, hoặc mới gặp mà cảm thấy ghét cay ghét đắng. Do cái gì? Do nghiệp duyên đời trước, ai gần gũi với mình nên gặp nhau đã có cảm tình. Còn người kia trước cũng có nghiệp duyên trái nghịch nên thấy lần đầu đã không có cảm tình. Đó là tinh thần nhân quả Phật dạy.
  • Phật dạy mỗi người sanh ra là sống trong nhân quả, sống trong nghiệp lực. Con người không làm chủ được mình, mà do nghiệp làm chủ chúng ta. Người học Phật, biết sân giận là xấu nhưng gặp chuyện thì cũng sân, không làm chủ được.

II. TU LÀ CHUYỂN NGHIỆP

Tu Phật là chuyển nghiệp, vì Phật dạy nghiệp không cố định. Cái gì có sanh thì phải có diệt, nghiệp cũng vô thường. Nghiệp do chúng ta tạo ra thì chính mình có thể chuyển đổi nó

  • Có người không hiểu, yếu đuối cứ an phận với nghiệp lực nên than sao nghiệp tôi nặng quá. Tất cả chúng sanh đều có thể chuyển được hết. Đức Phật là tấm gương cho mọi người, Phật hiện ra nơi đời giống như chúng ta không phải ở trên trời rơi xuống.
  • Nếu như Ngài ở trên trời hiện xuống thành Phật thì không ai dám tu theo Ngài, vì nghĩ Đức Phật quá cao siêu là một vị trời còn mình ở dưới đất đâu bằng được. Đức Phật đến cuộc đời này là một con người, có cha mẹ sanh ra, lớn lên lập gia đình, sống thụ hưởng ngũ dục trong cung vua. Rồi thái tử đi dạo bốn cửa thành thấy cảnh già, bệnh, chết. Hình ảnh cho Ngài tỉnh thức là vị Sa-môn từng bước ung dung trong cuộc đời. Ngài hỏi Sa-môn chân lý để thoát cảnh sanh già bệnh chết. Được Sa-môn giải thích con đường tu hành giải thoát, nên Ngài quyết định ra đi tìm cầu chân lý.

Con người đã có sanh thì có chết, sanh tử đều có nguyên nhân của nó, nếu tìm được nhân sanh tử thì sẽ có cách giải quyết quả sanh tử.

  •  Phật cũng vậy, Ngài quyết chí vượt thành xuất gia tìm đạo, cuối cùng đến cội Bồ-đề thiền định. Sau đêm bốn mươi chín, Ngài giác ngộ thành Phật, thấy rõ nguyên nhân của sanh tử luân hồi là mười hai nhân duyên.
  • Đó là nhân để có sanh tử, nếu dứt được tập nhân thì giải thoát sanh tử, chứng đạt Niết-bàn. Ngài thành tựu được, sau đó chỉ dạy cho mọi người như Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên v.v… tu chứng A-la-hán, chấm dứt cội gốc sanh tử luân hồi. Như vậy, nghiệp chuyển được, chứ không phải cố định.

Mọi người chúng ta khi thấy cảnh người sanh già bệnh chết, nghĩ đó là chuyện thường nên an phận. Ai sanh ra cũng chết, nên mình chết là chuyện thường không nghĩ gì thêm khác. Nhưng với Thế Tôn, Ngài quyết tìm nguyên nhân để giải quyết dứt điểm nó. Do đó, Ngài vượt lên chuyển được nghiệp. Điều này cho chúng ta thấy rằng, Ngài là con người Ngài đã làm được thì chúng ta cũng là con người như Ngài thì ai cũng có thể làm được. Theo ý nghĩa Phật là người giác ngộ, chúng ta cũng có thể giác ngộ như Phật.

Nhưng Phật giác ngộ ở đâu? Ngài giác ngộ từ tâm. Vậy mọi người có tâm thì đều có giác ngộ

  • Chúng ta học lịch sử Phật, nếu nói lại cho người khác nghe mà dùng từ không chính xác sẽ bảo: Đức Phật có cha là vua Tịnh-phạn, mẹ là hoàng hậu Ma-da, vợ tên Gia-du, có con là La-hầu-la. Nói như vậy là chưa chính xác, vì Phật làm gì có vợ, có con. 
  • Thái tử Tất-đạt-đa mới có vợ có con, sống trong hoàng cung rồi vượt thành xuất gia đi tìm đạo. Đến khi chứng ngộ mới gọi là Phật. Như vậy, Phật là một bậc Toàn giác, từ một con người bình thường sau đó giác ngộ nên gọi là Phật. Như vậy, mọi người đều có thể tu chuyển nghiệp được. Chúng ta không nên mặc cảm “tôi tội lỗi quá chắc tu không được”. Nếu vậy Phật ra đời làm gì? Phật ra đời để chỉ dạy cho chúng sanh tu, tu là sửa, sửa cái xấu thành cái tốt.
  • Nói đến đó bà khóc nghẹn. Tôn giả an ủi: “Cô không nên thương tâm quá độ, người mà biết rõ quá khứ vị lai thì xem đó là luân hồi nhân quả. Đó là nhân quả mà cô đã tạo đời trước nên bây giờ nó trở lại chứ không phải ngẫu nhiên đâu. Thật ra đời người là một bể khổ”.
  • Đây là bài học đánh thức mọi người thấy rằng dù cho tội lỗi nhiều như vậy, thì tánh giác cũng không mất. Nên nhà Phật có câu “Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh”, tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Người nhiều ác nghiệp nếu tỉnh giác tu hành có thể chuyển đổi thành thánh. Vậy thì số phận, định mệnh có thể chuyển chứ không phải an bày như nhiều người đã nghĩ. Liên Hoa Sắc tội lỗi nhiều như vậy còn chuyển đổi được tu chứng A-la-hán. Chúng ta ngày nay tội lỗi đâu nhiều như bà mà lại nghĩ không thể tu được. Chúng ta nếu chịu tu, chịu chuyển hóa thì sẽ có kết quả tốt.
  • Trong Phật pháp có Tứ Chánh Cần, tức là bốn điều siêng năng tinh tấn. Thứ nhất là điều ác chưa sanh thì ngăn không cho nó sanh. Thứ hai là điều ác đã sanh rồi thì khéo tinh tấn, siêng năng để trừ diệt nó. Thứ ba là điều thiện chưa sanh làm cho nó sanh. Thứ tư những điều lành đã sanh làm cho nó phát triển hơn.
  • Trong kinh Pháp Cú có dạy: Tự mình làm điều ác, Tự mình sanh nhiễm ô. Tự mình không làm ác, Tự mình thanh tịnh mình. Tịnh, không tịnh tự mình, Không ai thanh tịnh ai.
  • Nghĩa là mình làm điều ác thì tự mình làm ô nhiễm, tự mình không làm ác tức là làm điều thiện là tự thanh tịnh cho mình. Tự mình làm cho mình trong sạch, thanh tịnh hay không thanh tịnh là quyền của mình. Phật không đem đến thanh tịnh cho mình, mà Ngài chỉ dạy cách thức làm cho mình thanh tịnh. Phật chỉ con đường cho chúng ta đi nên gọi Phật là đại đạo sư. Phật là đại y vương, vị thầy thuốc cho thuốc chúng sanh để uống. Chúng sanh có uống thì mới hết bệnh được, không uống thì vẫn bệnh. Tịnh hay không tịnh là tự mình, Phật đem lại niềm tin cho mọi người, để tự mình có niềm tin tiến lên vì nghiệp từ tâm mà tạo.
  • “Chánh pháp là ao hồ, Giới là bến nước tắm, Không cấu uế, trong sạch, Được người lành tán thán”.
  • Tức là lấy chánh pháp làm ao hồ, giới là bến nước tắm, giới là những điều mà Phật ngăn cấm. Người phật tử qui y thọ năm giới thì giới là bến nước tắm đó, xuống bến nước tắm đó thì không cấu uế, trong sạch, tắm bằng nước Phật pháp thì trừ được uế tạp, sạch hết tội lỗi mới qua bờ bên kia. Người trí luôn tắm bằng nước pháp, trong sạch thân tâm qua được bờ giải thoát.

III. KHÔNG LẦM NHÂN QUẢ

  • Như vậy, muốn vui phải tránh tạo nhân ác, muốn hạnh phúc phải tạo nhân lành nhân tốt, đó là nhân quả rõ ràng. Người không hiểu đạo khi gặp đau khổ chỉ biết than trời trách Phật. Trái lại, người hiểu đạo khi khổ họ biết đây là nhân mình đã tạo đời trước, khổ này là quả phải trả cho xong. 
  • “Thân người là vô thường, mỏng manh, đáng chán nhưng không nên hủy hoại thân này. Thân này như chiếc bè gỗ để mình qua sông, nếu qua sông bị chới với, bị chìm thuyền mà gặp khúc gỗ mục cũng phải ôm để vào bờ. Cũng vậy, chúng ta phải tạm mượn thân này để tu hành, không nên bám chắc vào nó quá cũng không nên ghét bỏ nó làm cho thân hủy hoại. Sở dĩ bị thế này là vì đời trước ông là vị quốc vương chinh chiến nhiều nên sát hại vô số sinh mạng. Nhân quả phải trả, đáng lẽ phải đọa nhưng do đời nay ông biết tu nên chuyển thành nghiệp bị bệnh đau nhức giống như những mũi tên đâm. Đó là chuyển nghiệp nặng thành nghiệp nhẹ, hết nghiệp này ông sẽ mau đắc đạo thôi.
  • . Người học Phật hiểu rõ tất cả đều do nhân qua, đều có nhân duyên, không có gì là tự nhiên cả.
  • Tổ Bồ-đề Đạt-ma có dạy: “Người tu hành khi gặp phải những cảnh khổ phải tự nghĩ rằng ta từ trong vô số kiếp lâu xa đã bỏ quên gốc chạy theo ngọn, nên bị trôi nổi lang thang trong các cõi. Trong đó phần nhiều chúng ta đã dấy tạo bao nhiêu điều trái nghịch, oán ghét, hận thù. Nay đây tuy không có phạm phải nhưng đó là quả ươm từ nhiều đời trước. Khi quả đã chín mùi thì sẽ rụng xuống, chứ chẳng phải là trời thần hay người nào đem đến cho mình. Khi quả trổ thì chúng ta sẵn lòng nhận chịu, không nên sanh tâm oán trách. Kinh nói gặp khổ chẳng lo buồn, tại sao? Vì biết thấu suốt duyên cớ của nó”.
  • Phật dạy nhân quả có ba đời: quá khứ, hiện tại, vị lai. Đời này con người không làm điều ác nhưng đời trước đã tạo những điều ác đó, nay quả đời trước đã chín nên chúng ta phải hái nó trước. Đồng thời đời nay chúng ta tạo những điều lành, thì như mới trồng cây, cây nào trồng sớm sẽ có quả trước, cây này trồng trễ sẽ có quả muộn. Khi hiểu rõ nhân quả, chúng ta sẽ có niềm tin trong sáng vào Phật pháp.
  • Hiểu nhân quả rồi thì khỏi đi coi bói, gặp nghịch cảnh biết đây là mình đã tạo ở đời trước, mau mau tạo điều lành để chuyển dần thôi. Cũng như Phật dạy tu phước tích thiện sẽ chuyển nghiệp nặng thành nghiệp nhẹ. 

IV. TÓM KẾT

  • Nghiệp do chính chúng ta tạo, hiểu như vậy chúng ta sẽ không đổ lỗi cho ai. Đồng thời cũng là trả lại quyền tự chủ cho mình, mình làm thì mình chịu, rồi mình tự cải tạo đời sống để tiến lên, lấy lại niềm tin cho chính mình. 
  • Phật dạy ai cũng đều có Phật tánh, đó là đức tánh sáng suốt chứ không phải xấu xa. Dù là tên ăn trộm tội lỗi nhưng người đó cũng có cái tâm lành. Tên trộm đâu muốn mình thành người xấu, biết ăn trộm là xấu nên mới lén rình lấy. Tuy biết vậy nhưng bị nghiệp làm chủ rồi dẫn đi, vô minh che nhiều quá chứ cũng biết đó là điều xấu.
  • trong sâu thẳm nội tâm của mỗi người đều có tánh thiện, nếu chúng ta biết khai thác, phát huy thì những điều xấu này sẽ chuyển dần thành tốt. Đó là tu. Mỗi người đều có cái gốc tốt lành để phát triển, Phật là từ chúng sanh giác ngộ tiến lên thành Phật. Phật biết phát triển sớm và chỉ đường cho chúng sanh để ai cũng biết phát huy ra điều đó để tu thành Phật.
  • Vua Trần Nhân Tông khi đi tu, Ngài giác ngộ có làm bài kệ về Cư Trần Lạc Đạo: Ở đời vui đạo hãy tùy duyên, Đói đến thì ăn mệt ngủ liền. Trong nhà có báu thôi tìm kiếm, Đối cảnh vô tâm chớ hỏi thiền.
  • Trong nhà có báu, báu đây không phải vàng bạc, hột xoàn, kim cương mà là mọi người đều có Phật tánh. Tánh giác sáng suốt là của báu, báu trong Phật pháp không cần tìm kiếm ở bên ngoài mà phải biết phát huy, khai triển nó ra thì sử dụng được
  •  Đó là chuyển những tập nghiệp, chuyển chúng sanh thành Thánh hiền. Ngược lại, nếu người cứ chôn vùi của báu tức nhiên làm mãi chúng sanh. Chúng ta phải có niềm tin tiến lên, khai thác được của báu trong nhà để dùng mãi không hết. 
  • Như vậy, Phật đã chỉ đường, đã trao thuốc cho chúng sanh rồi. Việc còn lại là tự mỗi người lấy thuốc ra uống cho mau hết bệnh. Phải tự lực đi bằng đôi chân của chính mình mới mong mau về nhà. Vậy mong rằng tất cả chúng ta phải khéo tu tập, phát triển thiện tâm của mình tiến lên trên đường học Phật. Ngõ hầu mang lại lợi ích cho chính mình, đồng thời tác động đến mọi người xung quanh để ai ai cũng cảm nhận được giá trị thiết thực của Phật pháp. Từ đó con người gầy dựng niềm tin, hướng về ánh sáng Phật pháp để chuyển hóa khổ đau sống đời an lạc. Được như vậy, chúng ta sẽ làm tăng trưởng công đức, gián tiếp truyền bá Phật pháp, xứng đáng là người đệ tử Phật.

4. Cái Mê Truyền Kiếp

I. THẾ NÀO LÀ CÁI MÊ TRUYỀN KIẾP?

Quý vị biết cái mê truyền kiếp là thế nào không? Tức là cái mê từ đời này truyền qua đời kia, truyền mãi đến nay, chúng ta ngồi đây mà nó cũng còn đó không dứt +6+CHẤP NGÃ <== VÔ MINH

  • Ai sanh ra đời cũng đều có cái mê này, nên gọi đó là truyền kiếp. Vậy cái mê truyền kiếp là gì? Tức tình chấp ngã, cái mê chấp ngã. Và người nào còn đi trong sanh tử luân hồi, cũng đều mang theo cái mê này.
  • Trong pháp 12 nhân duyên, vô minh là gốc của luân hồi. Mà vô minh là mê. Tức là ngay một niệm bất giác ban đầu, quên mất tánh chơn sẵn có của chính mình, từ đó mang theo cái mê này đi mãi trong luân hồi.
  • Quý vị kiểm thật kỹ xem mình đang sống là sống vì cái gì? Có người nói sống vì sự nghiệp v.v…, nhưng thật ra chúng ta “sống vì cái ngã”. Nếu không có cái ngã, không có cái tôi thì lấy gì để sống? Do đó, người đời vừa mở miệng thì tiếng “tôi” là đầu tiên, là chủ từ.
  • Tâm ta đi cùng khắp Tất cả mọi phương trời Cũng không tìm thấy được Ai thân hơn tự ngã Tự ngã đối mọi người Quá thân thiết như vậy Vậy ai yêu tự ngã Chớ hại tự ngã người.
  • Phật dạy là tâm chúng ta đi khắp tất cả mọi phương trời, và xét kỹ thì không ai thân yêu hơn tự ngã của mình. Bởi tự ngã đối với mọi người quá thân thiết như vậy, ai cũng yêu thương tự ngã của mình. Theo tâm lý ở thế gian nếu mình yêu tự ngã của mình thì người khác cũng yêu tự ngã của người khác; vì vậy mình yêu tự ngã của mình thì chớ làm hại, làm tổn thương đến tự ngã của người khác.
  • Theo tinh thần Phật dạy thì phải biết mình biết người. Mình quý tự ngã của mình thì cũng quý tự ngã của người khác, thì sẽ cảm thông đến gần với nhau hơn.
  • Trong kinh Viên Giác, Phật giải thích rõ vô minh là chấp thân tứ đại này là ta, rồi tâm duyên theo bóng dáng của sáu trần bên ngoài là ta. Tức là con người này gồm cả thân-tâm đều không phải thật là mình, không thật là ta, nó là cái sanh diệt tạm bợ vô thường nhưng lại chấp cho đó là mình, đó là vô minh.

II. HỌC PHẬT LÀ HỌC TỰ NGÃ

  • Theo ngài Đạo Nguyên Tổ của tông Tào Động Nhật Bản dạy người học Phật là: “Học đạo tức là học tự ngã. Học tự ngã là buông bỏ tự ngã, mà buông bỏ tự ngã là giác ngộ các pháp, giác ngộ các pháp là buông bỏ thân tâm của mình và của người”. Học đạo đơn giản như vậy. Tức là buông xả cái ngã chứ không gì khác.
  • Cũng như Thiền sư Pháp Loa dạy: “Yếu chỉ của thiền định là thân tâm đều xả”. Nghĩa là học Phật để thật sự thấy rõ chính mình, rồi chuyển hóa mình. Ban đầu là thấy rõ chính mình, rồi tiến lên là quên mình, đẻ sống trở lại con người xưa nay.
    • Quý vị biết chính mình là gì không? Là không thật. Hiện tại, con người của chúng ta đầy tham lam, bỏn xẻn, sân hận, si mê, ganh ghét, hơn thua, ích kỷ…. mọi người đều nghĩ đó là con người thật của mình.
    • – Nếu vậy, ngay bây giờ nó không có, chỉ khi nào gặp chuyện thì nó mới hiện, vậy là chính khi ông và người khác tranh chấp với nhau, thì mới tạo ra nó, thế mà ông lại nói nó là vốn sẵn ông đã đỗ lỗi lầm cho cha mẹ, thật là quá bất công.
    • Trước ông nói tánh nóng có sẵn,nhưng bảo đem ra thì đem không được, chỉ khi gặp duyên mới hiện. Vậy sao ông nói là vốn sẵn? Nếu ông nói như vậy là đổ lỗi lầm cho cha mẹ sanh ra cái đó, thật là quá bất công.
    • Ai cũng nghĩ nóng nảy là cái tánh của mình, sẵn ở trong mình rồi, thương yêu không dám bỏ. Ở đây, ngài Bàn Khuê chỉ cho thấy rõ, lẽ thật là nó chỉ là cái đem vào sau này, chứ không phải là cái sẵn có từ ban đầu nên bảo đem ra thì đem không được. Nếu đã có sẵn thì lấy đem ra thôi, còn đây khi gặp duyên, xúc cảnh thì nó mới có. Vậy là nó có theo duyên, duyên qua rồi thì hết. Rõ ràng nó không phải là bản tánh, không phải là cái thật nơi mình. Nhận rõ như vậy thì không có lầm chấp nó là mình.
    • Nếu nó không phải là cái sẵn có, cái cố định nơi mình thì mình có thể chuyển, và nó có thể hết. Cho nên, nếu người khéo tu thì có thể chuyển hóa, vì nó không cố định, không có tánh thực, chắc chắn như vậy. Đây chính là lầm chấp ngã, từ lầm chấp này khiến chúng ta sống ngăn cách với nhau, rồi thu hẹp lại với nhau từ cái lầm đó.
    • Khi đã thấy rõ như vậy, thấu suốt được lẽ thật mới không đồng hóa mình với nó. Còn nghĩ đó là bản tánh của tôi, tức là mình đồng hóa mình với nó rồi, mà đồng hóa mình với nó thì làm sao trừ nó.

III. CON ĐƯỜNG VÔ NGÃ

  • tu càng lâu mà cái ngã càng cao thì phải kiểm điểm lại.
    • Thí dụ Phật dạy tu lục độ: Tu hạnh từ bi là để cái ngã của mình càng mở rộng, càng đến với mọi người. Nhờ mở rộng lòng thương mọi người nên bớt nghĩ đến mình, đó là đi vào cửa vô ngã. Nhẫn nhục để hạ bớt bản ngã; giữ giới là ngăn bớt buông lung…, cũng là đi vào con đường vô ngã.
    • Nếu xét kỹ, do vọng chấp huân tập lâu đời nên thành thói quen. Giờ đây có khi chúng ta cũng biết rõ đó là mê lầm nhưng vẫn cứ chấp. Mà đã là thói quen, là cái mới huân tập sau này, nếu quyết chí bỏ cũng có thể hết, đừng sợ nó không hết, bởi đó chỉ là lầm chấp thôi.
    • Chẳng hạn, quý vị thấy thân này là đất, nước, gió, lửa là những thứ vô tri hợp thành. Nói tế nhị hơn, những chất cứng trong thân như xương, lông, tóc là đất; máu là nước; lửa là hơi ấm, nhiệt độ trong người; còn gió là những chuyển động trong thân như là mạch nhảy, tim đập. Thì bốn thứ đó nó đâu có hiểu biết.
    • Quý vị kiểm lại thử mấy dòng máu, mấy sợi tóc, mấy đốt xương, mấy hơi ấm, nó có biết gì đâu, chẳng lẽ Ta là cái đó hay sao?
    • Còn tâm này khi có khi không, luôn thay đổi sanh diệt nên vô thường. Vừa mới nghĩ điều này liền nghĩ qua việc khác, luôn luôn như vậy. Một ngày có thể nghĩ và thay đổi hàng ngàn hàng vạn điều nghĩ.
    • Như vậy niệm nào là ta? Xét kỹ nó là những bóng chập chờn vậy thôi! Ngay thân của chúng ta, một ngày nó cũng thay đổi không biết bao nhiêu là cái ta trong đó, vậy cái nào là cái ta thiệt của mình?
    • Thí dụ quý vị đi làm về vợ ra chào, lúc đó ta là chồng. Khi đi vào trong nhà, đứa con đến thưa ba, lúc đó ta là cha. Gặp đứa cháu nội ra thưa ông, thì ta là ông nội. Vào bên trong gặp con chó nó mừng, lúc đó ta là chủ. Vào phòng trong gặp bà mẹ thưa mẹ, lúc đó ta là con. Nghe báo cáo bên phòng khách có người bạn đang chờ, bước qua phòng khách chào, lúc đó ta là bạn. Chỉ mới thời gian ngắn ngủi đó đã có bao nhiêu cái ta rồi? Nếu kiểm lại thì suốt cuộc đời có bao nhiêu cái ta?
  • Để thấy rõ bao nhiêu cái ta đó, là những “nhãn hiệu” dán vào thôi. Nhưng hầu hết con người đều lầm chấp vào những cái không thực, những nhãn hiệu bên ngoài đó. Vậy cái ta nào là thực?
  • Trong kinh Kim Cang, Phật nói: “Nói phàm phu tức chẳng phải phàm phu, nói chúng sanh tức chẳng phải chúng sanh, cho đến nói ngã cũng tức chẳng phải là ngã”.
  • Nói phàm phu nhưng mà chẳng phải là phàm phu, vì nó không cố định là phàm phu, do mê gọi là phàm phu vậy thôi. Nếu chuyển hết mê thành Phật thì mất cái tên phàm, cho thấy Phàm, Thánh cũng là cái tên đặt ra thôi. Cho nên, nếu mỗi người đang ngồi đây, nhận rõ, hiểu được thấu chỗ này thì hay biết mấy! Tức mình là “phàm phu tức chẳng phải phàm phu”.
  • Hiện tại sự sống của chúng ta cũng vậy, đang sống với cái tôi thứ hai, thứ ba. Còn cái “biết được” mấy cái tôi đó thì hình như ít ai nhớ tới. Nhưng nếu nghiệm kỹ lại được cái tôi trong chiêm bao thì sẽ tỉnh lại. Vậy có ai tỉnh chưa?

IV. TÓM KẾT

  • Tóm lại, chính “tình chấp nga”õ là cái “mê truyền kiếp”. Từ kiếp này dẫn qua kiếp khác, từ đời này qua đời khác không dứt, nên vẫn mãi đi trong luân hồi, gọi là truyền kiếp.
  • Chúng ta học Phật là học trí tuệ, học giác ngộ, chứ đâu phải học cái mê. Khi thấy rõ được cái lầm đó, thì phải giải trừ, phải cởi mở. Dù chưa thể dứt hết tình chấp như bậc Thánh, nhưng phải cởi mở dần, thì đó mới là đường đi của mình. Mỗi ngày phải cởi mở, buông xả cho nó nhẹ bớt, thì đó là đi đúng con đường an vui chân thật.

5. Phát Tâm Bồ Đề

I. THÂN NGƯỜI KHÓ ĐƯỢC, PHẬT PHÁP KHÓ NGHE

  • “Thân người khó được, Phật pháp khó nghe”? Phật dạy: “Trong kiếp luân hồi sinh tử này chúng ta được thân người là việc rất hy hữu, đâu phải chuyện thường
  • Người Tây Tạng có một câu ngạn ngữ “Ngày mai hay đời sau cái gì tới trước ta không thể biết được”. Chúng ta không thể biết được ngày mai tới trước hay đời sau tới trước. Có khi ngủ dậy là đi rồi, thế nên người Tây Tạng thấm sâu Phật pháp. Có một vị thầy nổi tiếng người Tây Tạng, mỗi đêm lúc đi ngủ, Ngài luôn rửa sạch tách, bình trà lau khô rồi gói lại cất trên đầu giường. Ngài nói vì ngủ rồi thì không chắc chắn có thức dậy được không? Nếu mỗi người chúng ta mà thấy được như vậy thì tu rất là mau tiến. Thân người mỏng manh như vậy mà mình không lo chuẩn bị tìm cái gì cao quý hơn để nương tựa, lại cứ bám chắc vào cái mỏng manh, bấp bênh này thành khổ. Cái cao quý, đó là Phật pháp

II. CÓ ĐẠO LÀ QUÍ

  • Vì vậy, vua Trần Thái Tông có bài kệ nhắc cho người nhớ về sắc thân của mình là: Bỗng mất thân người khi trước, Trở lại mang lấy đãy da. Đội lông mang sừng, hàm sắc dây yên, Lấy thịt nuôi người, dùng mạng trả nợ. Sanh thì bị khổ dao bằm, chày nện, Sống thì bị nạn nước sôi lửa bỏng. Hằng chứa oán thù, thay nhau ăn nuốt. Khi đó mới hối hận, học đạo không có nhân.
  • Có nghĩa là khi mất thân người, do nghiệp xấu đã tạo chúng ta phải sinh vào loài này, loài kia để trả nợ. Vào đó rồi thì khổ biết bao nhiêu! Vì sinh vào loài đó là để trả nợ, khi người đến đòi nợ thì mình sinh hận trở lại người ta, rồi lại chất chứa oán thù với nhau. Ân oán từ đời này qua đời kia theo vòng luân hồi xoay mãi. Khi đó, hối hận trước kia không biết tu, giờ không có nhân lành để học đạo, không điểm tựa, rất khổ sở, đâu ai cứu mình được.
  • Phật không cứu được mình mà mình phải tự cứu mình. Phật chỉ là bậc thầy dẫn đường chỉ Phật pháp, chỉ rõ con đường an vui hay đau khổ cho chúng ta. Muốn an vui thì đi con đường an vui, đừng đi con đường đau khổ. Đó là Phật cứu khổ cho chúng ta rồi. Phật chỉ đường mình không đi, Ngài chỉ đường an vui mà mình đi con đường đau khổ, rồi kêu Phật cứu thì làm sao Phật cứu được. Điều đó rất thực tế. Nên vua Trần Thái Tông nói tiếp: “Chỉ bằng ngay đây tu tập, chớ để đời này trôi qua. Đức Phật Thích Ca trước bỏ hoàng cung để vào núi Tuyết. Cư sĩ Bàng Uẩn đem gia tài đổ xuống biển sâu
  • Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ nhất có bài kệ: Thân thể nằm dài trên giường lần cuối Miệng thì thào những lời trăn trối Tâm ngắm nhìn ký ức lần cuối diễn ra Bi kịch ấy khi nào sẽ đến với người.
  • Đến lúc nào đó thân nằm dài trên giường bệnh, miệng thì thào nói lời trăn trôùi, khi sắp ra đi thì những ký ức trong đời quay lại giống như cuộn phim. Trước tạo nghiệp gì, giờ hiện ra hết. Tạo nghiệp lành thì hiện ra nghiệp lành, điều tốt thì ta thấy vui vẻ đi vào đường lành, đường tốt. Nếu tạo nghiệp ác, nghiệp dữ nó quay lại những cảnh xấu thì sợ hãi, làm tâm mình rối loạn, đi vào cảnh xấu. Và ai cũng đi đến giây phút đó. Cho nên, Ngài nói bi kịch đó khi nào sẽ đến với người, cảnh đó khi nào sẽ đến với mình? Không ai tránh khỏi hết, nên khéo biết lo học đạo.
  • Vì vậy, vua khuyên mọi người nên phát tâm Bồ-đề, phát tâm tỉnh giác, sống trở lại tính giác Bồ-đề nơi căn lành Bát-nhã chính mình để sáng tỏ lại. Mọi người ai cũng có lẽ thật thù thắng cao quý nhưng bỏ quên, nhận cái tạm bợ hư dối. Nên nói “Con đường mê giác ngay chỗ đó”.
  • Lâu nay nghe nói “Bồ-đề” là một danh từ, nghĩa là”giác”. Mà “giác” thì cái gì giác? Là tâm giác, tâm biết thì tâm giác. Phật cũng từ tâm mà giác ngộ, chúng ta ai cũng có tâm ấy hết. Nghĩa là đều có tính giác. Vậy mà không lo phát triển tính giác, chỉ lo phát triển cái biết buồn, vui, giận, ghét, hơn, thua. Đó chính là mê lầm tạo phiền não, quên mất chân tánh giác ngộ. Ở đây, vua Trần Thái Tông nhận thấy được điều đó, vua nhắc nhở mọi người khéo soi trở lại để phát triển nó.
  • Trong kinh Phật cũng từng nói: “Nhất thiết chúng sinh, giai hữu Phật tánh” nghĩa là “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh”. Nhưng vì chúng sanh mê nên phải làm chúng sanh, giờ biết rồi phải khéo phát triển nó trở lại, chuyển chúng sanh thành giác ngộ. Đó là con đường tiến lên của chúng ta. Có tâm là có biết, có tánh giác, vì mê nên trôi lăn hoài tạo nghiệp luân hồi, quên mất gốc, lang thang trong sinh tử. Gọi là sống tha hương, quên mất quê hương của chính mình là bản giác, là Phật tánh, chúng ta chỉ sống với tâm sinh tử như lưu lạc nơi xứ người.
  • Phật và các Tổ ra đời để nhắc nhở chúng sanh tỉnh giác trở lại. Phải soi lại ngay cái tâm giác để vượt lên cái mê lầm này, sống trở lại cái gốc, tức có ánh sáng, có đầy đủ ý nghĩa sống. Quý vị thấy hiện tại chúng ta sống có gốc hay mất gốc? Trong cuộc vô thường, tạm bợ, biến đổi nhưng vẫn còn có chỗ nương, vẫn còn có cái tánh giác Bồ-đề làm chỗ nương tựa cho mình. Cho nên, đó cũng là điểm chúng ta đáng mừng, mừng còn có điểm tựa. Nếu không chẳng biết cuộc đời chúng ta sẽ đi về đâu? Nên mọi người khéo phát triển tâm Bồ-đề. Nhưng muốn phát triển tâm Bồ-đề chúng ta phải biết tâm Bồ-đề là gì? Bản chất của tâm Bồ-đề là cái gì?

III. BẢN CHẤT TÂM BỒ-ĐỀ

  • Tâm Bồ-đề có ba nghĩa, hay bản chất của Bồ-đề đó có ba: Trực tâm, Thâm tâm và Đại bi tâm.

Trực tâm: Là tâm niệm luôn hướng thẳng về Phật tánh sáng suốt của mình, không để nó quanh co, giả dối theo tham, sân, si. Nghĩa là không để nó cong theo cái vô minh, theo bản ngã ganh ghét, hơn thua đó là xa cái tâm gốc Bồ-đề. Thực tế chính tâm ngay thẳng chân thật trong sáng, đó là nó chuyển mình gần với bản chất của tâm Bồ-đề.

Thâm tâm: Là tâm thường thích làm việc lành để gieo trồng các công đức, bồi dưỡng tâm Bồ-đề, không để cái tâm xấu chen vào, lấn áp dối gạt mình nên gọi là thâm tâm. Trên đường tu càng thêm nhiều công đức chừng nào thì càng tốt, chỉ sợ thiếu công đức, chứ đâu sợ dư công đức

  • Cho nên, nhà Phật có bốn câu kệ nhắc nhở người có tâm mạnh mẽ học đạo là Tứ Hoằng Thệ Nguyện: Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ, Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn. Pháp môn vô lượng thệ nguyện học. Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.
  • – “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”, tức là chúng sanh nhiều không kể, vẫn thề nguyện độ hết không bỏ sót là phát triển tâm Bồ-đề, phát triển tình thương của chúng ta đối với mọi người, mọi chúng sanh. Chúng ta có duyên lành học đạo trước, hiểu đạo sớm, nên nhớ và thương những người chưa hiểu đạo để cứu độ họ, nhờ vậy tâm Bồ-đề của ta càng lớn, càng mạnh thêm và cuộc sống của mọi người trên thế gian được an vui, gần gũi thêm. Còn chúng ta chỉ làm theo tâm phàm phu của mình, đôi lúc tâm cũng phát triển mạnh, giúp người này độ người kia, nhưng chỉ độ người nào thích hợp, mình thích thì mình độ, còn không thích thì không độ, bỏ bớt ra. Nên việc cứu độ còn giới hạn, còn theo tình chấp ngã cá nhân.
  • – “Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn”, tức là phiền não nhiều vô tận vẫn thệ nguyện đoạn hết. Như chúng ta cũng thệ nguyện đoạn phiền não nhưng đoạn phần nào thôi còn để dành lại không dám đoạn hết.
  • – “Pháp môn vô lượng thệ nguyện học”, tức là pháp môn nhiều vô lượng nhưng nguyện học hết, học hoài, học không ngừng. Chúng ta ngược lại, cũng học nhưng học một ít thôi, học vừa vừa thôi là thấy đủ rồi. Còn đây Phật dạy là học hoài không ngừng nghỉ, không thấy đủ.

Đại bi tâm: Là tâm thương xót cứu độ người, đưa người đến chỗ an vui. Khi thấy được cái khổ của chính mình, cảm thông được cái khổ của người khác, quên mình đến với người để mở rộng tình thương của mình cho cuộc đời tốt đẹp hơn. Phật dạy mỗi người ai cũng có nguồn gốc đồng như nhau, đó là nguồn gốc của tánh giác sáng suốt, cùng chung một nhà Như Lai.

6. Yếu Chỉ Tâm Kinh Bát Nhã

I. DẪN NHẬP

  • Thuộc lòng Bát-nhã là sao? Chúng ta ra đường gặp ai nói xúc phạm một chút, nghe hơi buồn buồn thì ngay khi đó chúng ta phải nhớ Tánh không. Những tiếng nói không thật, chúng ta cũng không thật, buồn cũng không thật chúng ta liền buông xuống thì mới là thuộc lòng Bát-nhã. Ngược lại, chúng ta để phiền não nổi lên, chỉ nhai đi nhai lại câu nói của người; tâm vẫn chạy theo vọng tưởng là chưa thuộc lòng Bát-nhã. Thuộc lòng Bát-nhã tức là lúc nào cũng thấy muôn pháp là không, nên không dính không mắc.

II. TINH THẦN BÁT-NHÃ LÀ PHÁ CHẤP, PHỦ ĐỊNH

Theo Bát-nhã, phủ định tất cả đều là không. Bồ-tát Quán Tự Tại khi quán chiếu sâu về Bát-nhã thấy năm uẩn đều là không

  • Năm uẩn là: sắc, thọ, tưởng, hành, thức đều không. Sáu trần là: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp cũng không; Sáu căn: nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý cũng không; sáu thức: nhãn thức, nhĩ thức v.v… cũng không
  • . Mười tám giới đều không, rồi không sanh, không diệt, không cấu, không tịnh v.v… không cả Tứ Đế, Mười hai nhân duyên, không chứng cũng không đắc. Vì vậy người học Bát-nhã là phá sạch, không cho tâm bám víu bất kỳ chỗ nào để không còn duyên mà sanh khởi.
  • Vì có chỗ tâm sanh là có chỗ tâm diệt, có sanh tử có khổ đau. Cho nên trước tiên là Phật phá chấp, không cho con người chấp vào cái gì hết, từ pháp thế gian cho đến pháp xuất thế gian.
  • Pháp thế gian Phật dạy chúng ta phải bỏ nhưng pháp xuất thế gian cũng không cho chúng ta bám, vì còn bám chấp là còn có ngại. Tu mà còn dính mắc bất cứ cái gì đều thành chướng ngại, cho dù đó là pháp xuất thế gian
  • Vì pháp xuất thế gian cũng là phương tiện, giống như vị lương y cho thuốc để trị bệnh cho người. Chúng ta uống thuốc hết bệnh thì phải bỏ thuốc, không ai hết bệnh mà lại uống thuốc hoài, nếu còn uống thuốc là chưa hết bệnh.
  • Pháp thế gian hay pháp xuất thế gian cũng đều là pháp, có lập ra thì có phá. Giống như chiếc xe là phương tiện chuyên chở con người đi từ chỗ này đến chỗ kia, như từ đây mà đến Đà Lạt, chiếc xe là phương tiện chở chúng ta đến Đà Lạt, nhưng chiếc xe không phải là Đà Lạt. 
  • Vì vậy Phật nói pháp nhưng rồi phá tất cả để con người không bám chấp vào pháp. Do tâm con người là quen nắm bắt, nên luôn có đối tượng để duyên theo. 
    • Như chúng ta ngồi chơi không có việc gì hết nhưng lại không chịu rảnh rang, ngồi một mình thấy buồn cô đơn bèn mở ti-vi xem hoặc kiếm sách báo đọc. Có người vào nhà vệ sinh còn đem theo tờ báo để đọc, tâm chúng ta không bao giờ chịu buông mà ngược lại luôn nắm bắt tìm chỗ để duyên. Nếu con người luôn sống với tâm rảnh rang, thoải mái, tự do thì có sướng hơn không? Nhưng con người lại thấy như vậy là trống vắng, cô đơn chịu không nỗi nên phải tìm chỗ duyên chỗ bám.

Do đó, tâm con người luôn đi đôi với pháp (có tâm thì có pháp), để tâm duyên với pháp, pháp là đối tượng để cho tâm duyên. Tâm duyên theo pháp gọi là tâm sinh diệt

  • Thí dụ: Như con mắt duyên với sắc, lỗ tai duyên với âm thanh, ý duyên với pháp trần v.v.. Các căn luôn có đối tượng để duyên theo hiểu biết, ngược lại nếu không có chỗ duyên thì giống như là tâm không còn biết. Khi ngồi thiền, nếu bảo chúng ta đừng nghĩ gì hết thì rất khó, vì chúng ta luôn có đối tượng để duyên.
  • rong kinh Lăng-nghiêm, Đức Phật dạy: “Có hai thứ căn bản phiền não: Thứ nhất là căn bản sinh tử từ vô thỉ là nhận tâm phan duyên làm tự tánh. Tâm phan duyên luôn nắm bắt đối tượng để duyên theo, rồi nhận cái đó làm tự tánh của mình. Đó là gốc sinh tử từ xưa tới nay, vì có đối tượng thì biết còn không đối tượng thì không biết gì hết. Đây gọi là tâm sinh diệt, là gốc sinh tử. Thứ hai là căn bản “Bồ-đề Niết-bàn”, tức là “Thức tinh nguyên minh” hay sanh ra các duyên mà bị các duyên bỏ sót nó”.
  • Nguyên là nguyên vẹn, minh là sáng suốt, “Thức tinh nguyên minh” là cái thức nguyên vẹn, tinh ròng không bị xen lẫn bất cứ cái gì. Nghĩa là cái thức căn bản nguyên vẹn sáng suốt hay sanh ra các duyên nhưng bị các duyên bỏ sót nó. Tức là nó biết cái này, biết cái kia, biết đủ thứ đó là sanh các duyên, nhưng khi nó biết cái nào rồi thì nó chỉ nhớ cái đó mà quên mất chính nó. Cho nên gọi là bị các duyên bỏ sót nó.
  • Thí dụ: như khi nó nhìn cái bình hoa thì chỉ nhớ cái bình hoa, mà quên mất chính nó. Chính chỗ đó mà người ta tu hành ít có đến được chỗ rốt ráo, ngược lại hay rơi vào các thú hoặc rớt vào các đường sanh tử.
  • Con người thấy cái nào rồi thì đồng hóa mình với cái đó mà quên mất nó. Bây giờ chúng ta khéo trở lại, biết hết tất cả nhưng không bỏ sót nó thì đó là Bát-nhã. Như vậy không phải không cho chúng ta biết, biết hết nhưng đừng bỏ sót chính nó. Đó gọi là biết Bát-nhã, là gốc trở về Bồ-đề Niết-bàn. 
  •  Chúng ta thấy giữa sanh tử và Niết-bàn cách nhau bao xa? Chỉ là một cái xoay thôi. Thay vì biết tất cả rồi đồng hóa nó với tất cả mà quên mất chính nó, thì đó là sanh tử luân hồi. Biết tất cả mà không quên mất chính nó, luôn luôn có mặt chính nó thì đó là gốc Bồ-đề Niết-bàn. Chỉ nhích chút xíu, đâu có cách biệt xa xôi gì. Nhưng tập khí nhiều đời làm con người không chịu nhích, nó biết cái gì thì đồng hóa cái đó, chỉ nhớ cái đó thôi.
  • Đúng như kinh Lăng-nghiêm, Phật quở Ngài A-nan. Phật đưa cánh tay lên, hỏi: “Thấy không?”. A-nan thưa: “Thấy”. Phật để cánh tay xuống, hỏi: “Thấy không?”. Đáp: “Không thấy”. Như vậy rõ ràng, khi đưa cánh tay lên thì thấy cánh tay, biết có cánh tay rồi đồng hóa chính nó với cánh tay luôn. Nó nhớ cánh tay mà quên mất chính nó, nên khi để cánh tay xuống thì nói là không thấy, vì nó chỉ nhớ cánh tay. Sự thật là giơ cái tay lên thì nó thấy cái tay, để cái tay xuống thì nó thấy không có cái tay, chính nó luôn có mặt, lúc nào cũng sáng suốt. 
    • Rồi nghe tiếng cũng vậy, khi nghe có tiếng nói thì bảo có nghe, khi ngưng không có tiếng nói thì gọi là không nghe. Đó là đồng hóa chính nó với cái tiếng, nên quên mất chính nó, đó là gốc sanh tử luân hồi. Bây giờ chúng ta tu Bát-nhã là trở lại, khi nghe nó cũng biết có tiếng nhưng không quên mất chính nó. Nghe tiếng thì biết có tiếng, không tiếng thì biết không tiếng, vậy thôi. Lúc nào nó cũng biết, cũng nghe, nghe có tiếng nghe không có tiếng, đâu có lúc nào mất. Đó chính là trở về Bát-nhã, là gốc Bồ Đề Niết-bàn.

III. KHẲNG ĐỊNH

Tâm kinh Bát-nhã là trừ sạch các tâm phan duyên, tâm bám chấp theo duyên nên nói cái gì cũng không, để nó không bám dính vào bất cứ cái gì. 

  • Không bám không dính gì hết là trả về gốc Bồ Đề Niết-bàn. Nhưng theo tinh thần Bát-nhã chỉ là phá chấp, chứ không nói đến cái gốc của nó. Đến tinh thần Lăng-nghiêm, Pháp Hoa, Phật mới chỉ ra cái gốc chân thật đó. 
  • Cho nên, Bát-nhã ban đầu vào là phá hết, nói gì cũng không. Nhiều người hiểu chưa chính xác Bát-nhã, nói học Bát-nhã dễ rơi vào chấp không.
  • Nhưng nếu là người học kỹ Bát-nhã, sẽ thấy tinh thần của Bát-nhã là phủ định tất cả để thành tựu tất cả. Mở đầu bài Tâm kinh là phủ định cái gì cũng không, nhưng đoạn cuối thì xác định ba đời chư Phật đều nương Bát-nhã Ba-la-mật-đa mà được đạo quả vô thượng Bồ-đề, Bồ-tát cũng y theo Bát-nhã Ba-la-mật-đa mà tâm không ngăn ngại, vì tâm không ngăn ngại mà đạt đến cứu cánh Niết-bàn
  • Như vậy, ba đời chư Phật đều nương nơi Bát-nhã mà thành Chánh đẳng Chánh giác. Bồ-tát cũng nương nơi Bát-nhã mà tâm không ngăn ngại, xa rời điên đảo vọng tưởng đến cứu cánh Niết-bàn. Cuối cùng, đâu có phải là không hết, ban đầu phủ định sau là xác định trở lại.
  • Thiền sư Duy Tín nói: “Lúc chưa học đạo, thấy núi sông là núi sông. Khi học đạo, thấy núi sông chẳng phải núi sông, sau ba mươi năm thấy núi sông là núi sông”. Con người khi chưa học đạo thấy gì cũng thật: mình thật, người thật, vật thật v.v… nhưng đến khi học Bát-nhã thấy cái gì cũng không thật: Ta không, vật không, pháp cũng không v.v… nên thấy núi sông chẳng phải núi sông. Nhưng đến chỗ rốt ráo, tâm sáng suốt phá sạch hết không còn chấp bất cứ điều gì nên thấy trở lại núi sông là núi sông, không nói có nói không gì cả.
  • Tuy nhiên, đến giai đoạn này thấy núi sông là núi sông khác với lúc chưa học đạo. Vì chúng ta thấy trong trí tuệ sáng suốt, thấy rõ núi sông là núi sông nhưng không mê lầm nó, nên khác hơn với lúc chưa học. Như vậy khi tâm phá sạch tình chấp thì nhìn cái gì nó cũng sáng ngời, tỏ rõ không mê lầm.
  • Giống như chúng ta mang mắt kính, nếu đôi kính màu đen thì thấy cảnh vật cũng màu đen, nếu đôi kính màu hồng nhìn cái gì cũng màu hồng. Khi gở mắt kính ra thì thấy cái gì đúng như thật cái đó. Khi tâm sạch hết tình chấp thì nhìn tất cả đều trong ánh sáng chân thật. Nên nói Bát-nhã rốt cùng là chân thật bất hư, thấy rõ cái chân thật không hư đối.
  • IV. VƯỢT QUA DẤU VẾT VĂN TỰ NGÔN NGỮ
  • Do tâm con người lúc nào cũng muốn hiểu biết, nên luôn tìm cách duyên theo để hiểu. Đúng theo tinh thần Bát-nhã là ngay khi không còn chỗ nào để hiểu là đi vào Bát-nhã. Ý nghĩa rất sâu xa nhưng thường thì chúng ta đọc chữ nghĩa rồi cho qua, chứ không thấy được ý nghĩa đó. Vì vậy không có gì mâu thuẫn, mà đầy đủ ý nghĩa. Như nhà Thiền thường hét một tiếng, đập một gậy là hết nghĩ ngợi đưa thẳng vào Bát-nhã, gọi là một đao chặt đứt hai đầu. Người lanh lợi, bén nhạy thì ngay đó là vào cứu cánh Bát-nhã, mới đúng là học xong Bát-nhã. Bài tâm kinh Bát-nhã là tinh yếu, hệ thống của bộ kinh Bát-nhã. Cho nên, chúng ta có thể học kỹ bài tâm kinh Bát-nhã là đủ thành Phật rồi. Nên kinh nói ba đời chư Phật đều y đó mà thành Phật, Bồ-tát cũng y đó mà tâm vô quái ngại đạt đến cứu cánh Niết-bàn. Đúng tinh thần học Phật là học ngay tâm chứ không phải chỉ học chữ nghĩa.
  • Qua đây, Phật muốn nhắn nhủ cho người sau là phải vượt qua chỗ Phật đã nói để thấy được chỗ Phật chưa nói, chỗ Phật không thể nói, đó mới là khéo hợp với ý Phật. Kinh Lăng-già ghi: “Phật ra đời từ khi ban đầu chuyển pháp luân cho đến sau nhập Niết-bàn, trong khoảng bốn mươi chín năm Phật thuyết pháp nhưng cuối cùng ngài xác định: “Như Lai chưa từng nói một lời””. Thuyết pháp bốn mươi chín năm mà chưa từng nói một chữ, rõ ràng muốn nhắn những người đệ tử Phật là không nên mắc kẹt trên chữ nghĩa, tuy chữ nghĩa do Phật nói nhưng mà lý thật không ở trên chữ nghĩa đó. Phật nói xong là phủi sạch, chưa từng nói một chữ nào.

V. TÓM KẾT

  • Chúng ta học Bát-nhã là học xả tất cả để được tất cả. Học Bát-nhã là sẵn sàng buông, là phá chấp chứ không phải phá pháp. Có người phê bình Bát-nhã nói cái gì cũng không: Tứ đế, Mười hai nhân duyên đến trí đắc cũng không, như vậy Phật phá hết pháp lấy gì tu? Nếu chúng ta hiểu đúng theo tinh thần Bát-nhã, phá ở đây là phá chấp về cái pháp đó chứ không phải là phá pháp. Pháp là Phật dạy cho người tu: Tứ đế, Mười hai nhân duyên, Lục độ Ba-la-mật đâu có lỗi, lỗi là người ta chấp vào pháp đó.
  • Thí dụ: như chấp vào Tứ đế cho mình thật có chứng đắc được quả A-na-hàm, A-la-hán v.v… Do chấp có chứng có đắc mới là lỗi, nếu biết đó là phương tiện Phật dạy để chúng sanh trừ mê lầm, chấp trước trở về cái chân thật thì đâu có lỗi. Biết rõ quả vị cũng là phương tiện không phải là mục đích cứu cánh, thì chúng ta không mắc kẹt trên những quả vị đó. Không thấy tôi là người chứng A-la-hán nên không mắc kẹt.
  • Học Mười hai nhân duyên là để phá chấp về sanh tử luân hồi. Con người sinh tử luân hồi là từ: vô minh duyên hành, hành duyên thức v.v… nên có sinh tử, ưu bi, khổ não. Do chúng sanh lầm chấp Mười hai nhân duyên, nên Phật nói Mười hai nhân duyên để người tỏ ngộ chúng không có thật. Nhưng chúng ta lại chấp sinh tử có thật vào Mười hai nhân duyên. Sinh tử không có thật, chỉ do nhân duyên mà có sinh tử. Do cái này có nên cái kia có, nếu cái này không thì cái kia cũng không. Như vậy rõ ràng sinh tử không có tính thật, ngay đó nhận ra sinh tử vốn không tức là vô sanh. Phật nói Mười hai nhân duyên để chúng ta thấu suốt được sinh tử không có thật, chúng sanh có thể thoát được sanh tử.
  • Chúng ta hiểu như vậy mới thấy được ý nghĩa sâu của Phật dạy. Phá chấp hết thì chân thật hiện bày, Bát-nhã sáng ngời. Tinh thần của đạo Phật là vô ngã: nhân vô ngã, pháp vô ngã cuối cùng không có gì để bám. Nhưng cái gì thấu tất cả đều vô ngã? Và cái này có phá được không? Chính Bát-nhã thấu suốt tất cả, phá hết tất cả, khi phá sạch hết rồi chính đó là Bát-nhã. Và cái đó không làm sao phá được.

7. Tam Nhân Phật Tánh

I. CHÁNH NHÂN PHẬT TÁNH

  • Người tu Phật làm sao phải sáng được tâm, ngay nơi con người này chúng ta nhận ra cái chân thật vĩnh cửu mới là mục đích cứu cánh. Vì vậy chúng ta khéo luôn tự nhắc nhở mình cùng nhau nhìn lại, nhận cho ra chân lý hiện thực nơi mỗi người qua “Tam Nhân Phật Tánh”.
  • Phật tánh là tánh giác, là lẽ thật nơi mỗi người, là chân lý bình đẳng với tất cả. Phật nói trong kinh Niết-bàn: “Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh“. Đó là một chân lý bình đẳng, tất cả chúng sinh đều có đủ nhưng do quên chánh nhân này nên mới chịu luân hồi sanh tử
    • Ngay nơi sáu căn này: con mắt tìm sắc trần để duyên theo hiểu biết, lỗ tai tìm thanh trần, lỗ mũi tìm hương trần, lưỡi tìm vị trần, thân tìm xúc trần, ý tìm pháp trần. Chúng ta luôn đi tìm các trần bên ngoài để nó làm duyên, nếu không có các trần đó thì thấy giống như mất mình
    • Cho nên, phải tìm cái gì đó, tìm được một chút rồi mất; nghe được tiếng gì hay vừa cái lỗ tai một chút thì nó cũng qua, rồi tìm cái khác
    • Chúng ta học pháp, nghe pháp để tiếp thu là cũng đang kiếm ăn, quên mất gốc chân thật mình giàu có. Đến bao giờ giác ngộ, thấy rõ nguồn gốc của chính mình không phải là chúng sinh, mà là Phật Tánh sáng suốt đó là về nhà kế thừa gia bảo. Gốc của chúng ta là Phật chứ không phải chúng sinh, nhưng do lầm mê quên mất chánh nhân sẵn có nên đành lang thang vô lượng kiếp tử sinh. Mỗi người ai cũng có chánh nhân, nên Phật, Tổ thường bảo: “Kia đã trượng phu, ta đây cũng vậy”. Như Lai tu thành Phật, chúng sinh nếu biết khai thác tánh Phật, tu hành công đức viên mãn cũng sẽ là một vị Phật.
  • Theo tinh thần Đại thừa là đánh thức mọi người phát tâm Bồ-đề cầu đến giác ngộ thành Phật. Chúng ta tu là trở về địa vị Phật của chính mình, chứ không phải tu cuối cùng rồi về quỳ dưới chân Phật cầu xin cái này cái kia. Chúng ta phải có niềm tin để vươn lên, Phật cũng từ chúng sinh mà thành. Bồ-tát là hữu tình giác, một chúng sinh giác ngộ. Một chúng sinh giác ngộ rồi giác ngộ lại chúng sinh, gọi là giác hữu tình. Đó là ý nghĩa Bồ-tát. Như vậy, Bồ-tát cũng là từ chúng sinh mà tiến thành Bồ-tát.
    • Ngày xưa, khi muốn lấy lửa thì dùng hai cành cây cọ xát lại, cọ lâu nó nóng phát ra lửa rồi lấy bùi nhùi đốt làm lửa. Ở đây, Sư nói:”Trong cây vốn có lửa“, nó có sẵn cái mầm lửa trong đó, chúng ta cọ xát thì lửa sẽ sanh. Nếu trong cây không có mầm lửa, dù chúng ta có cọ xát cách mấy nó cũng không phát ra lửa được.
    • Cũng vậy, trong chúng sinh có mầm giác, chúng ta khéo biết khai thác thì mới giác ngộ được. Phật giác ngộ từ đâu? Đọc lịch sử thấy Phật ngồi dưới cội cây Tất-bát-la (cây Bồ-đề) thiền định qua bốn mươi chín ngày đêm, khi thấy sao Mai mọc ngài liền giác ngộ thành đạo. Vậy Ngài thành đạo ở trên sao Mai, ở dưới cội Bồ-đề, hay ở đâu? Chúng ta thường nói: “Phật thành đạo dưới cội Bồ-đề”. Nếu thành đạo dưới cội Bồ-đề thì chúng ta qua Bồ-đề đạo tràng bên Ấn Độ là tìm được rồi. Nhưng biết bao người qua bên đó mà vẫn là chúng sinh?
    • Phật thành đạo là ngay nơi tâm giác ngộ của ngài. Không ở cội Bồ-đề cũng không có trên sao Mai, đó chỉ là di tích. Ngay nơi tâm có mầm giác, đó là khả năng đưa chúng sinh đến giác ngộ. Nếu chúng ta không có nhân giác thì tu cách mấy cũng không giác được. Trong Kinh Tiểu Phẩm Bát-nhã, Phật dạy: “Tất cả chúng sinh xưa nay đều là thanh tịnh. Giả như khiến cho chư Phật ở trăm ngàn muôn kiếp xướng lên rằng: “Chúng sinh, chúng sinh”. Cũng không quyết định có chúng sinh thật có thể được!”. Nghĩa là, Phật xác định tất cả chúng sinh xưa nay đều là thanh tịnh. Giả như chư Phật ở trăm ngàn muôn kiếp xướng lên “chúng sinh, chúng sinh” nhưng cũng không quyết định thật có chúng sinh cố định. 
    • Vì chúng sinh cũng là danh từ tạm thời, đặt ra trong một giai đoạn đang mê muội. Nếu tỉnh sáng thì không gọi tên chúng sinh nữa. Chúng sinh chỉ là cái tên, không phải cố định. Người nghe cái tên rồi chấp kẹt vào cái tên. Giống như chúng ta mới sanh ra không có tên, nhưng khi đặt cho cái tên rồi mà kêu khác đi thì không chịu. Nhưng cũng có trường hợp kêu khác, như chúng ta đi tu thầy Bổn sư đặt cho cái tên mới, lúc đó gọi bằng pháp danh chứ không gọi tên mà cha mẹ đã đặt cho chúng ta như trước nữa. Đôi khi vào chùa lâu lâu lại đổi tên nữa, cho nên cái tên không cố định. Cũng vậy tên chúng sinh không cố định, chỉ đặt ra trong một thời điểm nào đó, nó không có thực.


One response to “Con Đường Giác Ngộ+ THÍCH THÔNG PHƯƠNG”

Leave a comment